Có khoảng 20 loài thuộc chi Sinocalamus McClure thuộc phân họ Bambusoideae Nees thuộc họ Gramineae. Khoảng 10 loài được sản xuất ở Trung Quốc và một loài được đưa vào số này.
Lưu ý: FOC sử dụng tên chi cũ (Neosinocalamus Kengf.), không phù hợp với tên chi sau này. Sau này tre được xếp vào chi Bambusa. Hướng dẫn minh họa này sử dụng chi Tre. Hiện tại, cả ba loài đều được chấp nhận.
Ngoài ra: Tre Dasiqin là một giống cây sinocalamus affinis được trồng
1. Giới thiệu về sinocalamus affinis
Sinocalamus affinis Rendle McClure hoặc Neosinocalamus affinis (Rendle)Keng hoặc Bambusa emeiensis LcChia & HLFung
Affinis là một loài thuộc chi Affinis trong phân họ Bambusaceae thuộc họ Gramineae. Loài Affinis được trồng ban đầu phân bố rộng rãi ở các tỉnh Tây Nam Bộ.
Tre Ci là loại tre nhỏ, thân cây, có chiều cao sào từ 5-10m. Đầu nhọn và cong ra ngoài hoặc rủ xuống như dây câu khi còn non. Toàn bộ cột có khoảng 30 đoạn. Thành cực mỏng và các lóng là hình trụ. Hình dạng, dài 15-30 (60) cm, đường kính 3-6 cm, có lông châm chích nhỏ hình mụn cóc màu trắng xám hoặc nâu bám trên bề mặt, dài khoảng 2 mm. Sau khi lông rụng, để lại những vết lõm nhỏ, vết lõm nhỏ ở các lóng. Điểm mụn cóc; vòng cực phẳng; chiếc nhẫn là hiển nhiên; chiều dài của nút khoảng 1 cm; Một số đoạn ở chân cột đôi khi có gắn các vòng nhung màu trắng bạc ở trên và dưới vòng, có chiều rộng vòng từ 5-8 mm, mỗi đoạn ở phần trên của cột không có vòng nút. có vòng lông tơ này hoặc chỉ có lông tơ nhẹ quanh chồi thân.
Vỏ bao kiếm được làm bằng da. Khi còn non, các thanh trên và dưới của vỏ bám chặt vào nhau. Mặt sau được bao phủ dày đặc bởi những sợi lông màu trắng và lông màu nâu đen. Bề mặt bụng sáng bóng. Miệng bao rộng và lõm, hơi có hình “ngọn núi”; vỏ không có tai; Lưỡi hình tua rua, cao khoảng 1 cm có lông khâu, gốc lông khâu phủ thưa thớt những sợi lông nhỏ màu nâu; hai bên vảy có phủ những sợi lông nhỏ màu trắng, có nhiều gân, đỉnh thuôn nhọn, gốc hướng vào trong. Nó hẹp và hơi tròn, chỉ dài bằng nửa miệng bao hoặc lưỡi bao. Các cạnh được làm nhám và cuộn vào trong như một chiếc thuyền. Mỗi đoạn thân có hơn 20 nhánh mọc thành chùm, hình bán nguyệt, nằm ngang. Kéo dài ra, nhánh chính hơi lộ rõ, nhánh dưới có vài lá, thậm chí nhiều lá; bẹ lá không có lông, có gân dọc, không có đường khâu lỗ bẹn; lưỡi mác cắt cụt, màu nâu đen, lá hình mác hẹp, chủ yếu dài 10-30 cm, rộng 1-3 cm, mỏng, đỉnh nhọn, mặt trên không có lông, mặt dưới có lông, 5-10 đôi gân thứ cấp, không có gân ngang nhỏ, mép lá thường xù xì; cuống lá dài 2 – 3mm.
Hoa mọc thành chùm, thường rất mềm. Cong và rủ xuống, dài 20-60 cm hoặc dài hơn
Thời kỳ măng từ tháng 6 đến tháng 9 hoặc từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Thời kỳ ra hoa chủ yếu từ tháng 7 đến tháng 9, nhưng có thể kéo dài vài tháng.
Tre Ci cũng là loại tre chùm nhiều nhánh. Đặc điểm nổi bật nhất của nó là những chiếc vòng nhung màu trắng bạc ở hai bên chiếc nhẫn ở dưới chân cột.
2. Các ứng dụng liên quan
Cần câu Cizhu có độ dẻo dai cao, có thể dùng làm cần câu tre. Nó cũng là nguyên liệu tốt để dệt và làm giấy. Măng của nó có vị đắng và không được khuyến khích sử dụng. Công dụng của nó trong cảnh quan sân vườn cũng giống như hầu hết các loại tre. Nó chủ yếu được sử dụng để trồng nơi trú ẩn. Là loại tre mọc thành từng cụm và cũng có thể trồng theo nhóm. Nó được sử dụng phổ biến hơn trong các khu vườn và sân trong. Nó có thể được kết hợp với đá, tường cảnh và tường vườn với kết quả tốt.
Cây ưa ánh sáng, chịu bóng nhẹ, thích khí hậu ấm áp và ẩm ướt. Nó có thể được trồng ở Tây Nam và Nam Trung Quốc. Không nên trồng ngang qua tuyến Qinhuai. Nó thích đất ẩm, màu mỡ và tơi xốp, không phát triển tốt ở những nơi khô cằn và cằn cỗi.
3. Ưu điểm khi sử dụng trong sản xuất giấy
Những lợi thế của Cizhu đối với sản xuất giấy chủ yếu thể hiện ở sự tăng trưởng nhanh chóng, khả năng tái chế bền vững, giá trị sinh thái và môi trường cũng như ứng dụng trong ngành sản xuất giấy.
Trước hết, là một loại tre, Cizhu rất dễ trồng và phát triển nhanh chóng, điều này khiến Cizhu trở thành nguồn tài nguyên tái chế bền vững. Việc chặt tre hợp lý hàng năm không những không gây tổn hại đến môi trường sinh thái mà còn thúc đẩy sự phát triển và sinh sản của tre, điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì cân bằng sinh thái. So với cây, tre có giá trị sinh thái và môi trường cao hơn. Khả năng cố định nước của nó cao hơn rừng khoảng 1,3 lần và khả năng hấp thụ carbon dioxide của nó cũng cao hơn rừng khoảng 1,4 lần. Điều này càng nhấn mạnh những lợi thế của Cizhu trong việc bảo vệ sinh thái.
Ngoài ra, là nguyên liệu thô để sản xuất giấy, Cizhu có đặc tính là sợi mịn nên trở thành nguyên liệu chất lượng cao để làm giấy bột tre. Tại các khu sản xuất Cizhu chất lượng cao ở Tứ Xuyên và những nơi khác ở Trung Quốc, giấy làm từ Cizhu không chỉ thân thiện với môi trường mà còn có chất lượng cao. Ví dụ: Giấy bột tre nhân dân và Giấy màu tự nhiên Banbu đều được làm từ 100% bột tre nguyên chất. Không có chất tẩy trắng hoặc chất huỳnh quang được thêm vào trong quá trình sản xuất. Chúng là giấy màu tự nhiên bằng bột tre thật. Loại giấy này không chỉ thân thiện với môi trường mà còn đạt được chứng nhận kép “true color” và “bột tre nguyên chất”, đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm thân thiện với môi trường.
Tóm lại, lợi thế của Cizhu đối với ngành sản xuất giấy nằm ở tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, khả năng tái chế bền vững, giá trị sinh thái và môi trường cũng như đặc điểm là nguyên liệu thô sản xuất giấy chất lượng cao. Những lợi thế này khiến Cizhu đóng một vai trò quan trọng trong ngành giấy và tuân thủ các yêu cầu của khái niệm bảo vệ môi trường hiện đại.
Thời gian đăng: 26-09-2024